Phẫu thuật cắt gan là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật cắt gan

Phẫu thuật cắt gan, hay còn được gọi là phẫu thuật gan mở, là một quá trình loại bỏ một phần hay toàn bộ gan thông qua việc cắt bỏ mô gan. Phẫu thuật này thường...

Phẫu thuật cắt gan, hay còn được gọi là phẫu thuật gan mở, là một quá trình loại bỏ một phần hay toàn bộ gan thông qua việc cắt bỏ mô gan. Phẫu thuật này thường được tiến hành khi gan bị tổn thương nghiêm trọng, bị nhiễm trùng nặng, hoặc khi có một khối u gan lớn.

Phẫu thuật cắt gan có thể được thực hiện bằng cách mở cơ thể, tạo ra một mở cắt ở vùng gan và sau đó loại bỏ gan. Sau khi gan được cắt bỏ, bệnh nhân sẽ được chuyển đến một quá trình cấy nghép gan để thay thế chức năng gan bị mất.

Phẫu thuật cắt gan là một phẫu thuật phức tạp và chỉ được thực hiện khi không có phương pháp điều trị nào khác khả quan để điều trị bệnh gan. Sau phẫu thuật, bệnh nhân phải tuân thủ một chế độ ăn uống và chăm sóc đặc biệt để đảm bảo chức năng cơ bản của hệ tiêu hóa và cơ thể được duy trì.
Phẫu thuật cắt gan có thể được thực hiện cho nhiều lý do khác nhau, bao gồm:

1. Ung thư gan: Phẫu thuật cắt gan có thể được thực hiện để loại bỏ khối u gan. Điều này đặc biệt quan trọng đối với ung thư gan giai đoạn sớm hoặc những người không đủ sức khỏe để chịu quá trình ghép gan.

2. Máu lưu thông kém: Khi gan bị tổn thương hoặc bị bức bối tới mức không thể sửa chữa, phẫu thuật cắt gan có thể được áp dụng để loại bỏ phần gan bị tổn thương và khích lệ quá trình tái tạo gan.

3. Nhiễm trùng gan: Gan nhiễm trùng nặng có thể yêu cầu phẫu thuật cắt gan để loại bỏ nguồn gốc nhiễm trùng và ngăn chặn sự lan rộng của bệnh.

4. Gan tăng kích thước: Một số bệnh nhân bị viêm gan hoặc xơ gan có thể trải qua phẫu thuật cắt gan nếu gan tăng kích thước quá lớn và gây ra các biến chứng.

Phẫu thuật cắt gan thường được tiến hành dưới tác dụng của anesthesia toàn thân. Quá trình cắt gan bắt đầu bằng việc tạo một mở cắt dọc hoặc ngang trên vùng gan, dựa vào phần gan cần loại bỏ. Sau đó, các mạch máu tới và đi từ gan sẽ được kẹp lại hoặc cung cấp máu thay thế để duy trì tuần hoàn máu.

Sau khi quá trình cắt bỏ gan được hoàn tất, bệnh nhân có thể được chuyển đến một quá trình cấy nghép gan (nếu áp dụng) để thay thế chức năng gan bị mất. Sau phẫu thuật, bệnh nhân yêu cầu chăm sóc đặc biệt, bao gồm uống thuốc chống viêm và chống tái xảy ra nhiễm trùng, tuân thủ chế độ ăn uống và giảm stress để giúp gan phục hồi.

Phẫu thuật cắt gan có thể mang lại một số hiểu quả lớn đối với những bệnh nhân mắc các bệnh gan nghiêm trọng. Tuy nhiên, quá trình và quá trình phục hồi sau phẫu thuật là một quá trình phức tạp và yêu cầu sự chăm sóc bậc nhất từ các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật cắt gan":

Kết quả chăm sóc bệnh nhân sau phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư biểu mô tế bào gan
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chăm sóc bệnh nhân sau phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư biểu mô tế bào gan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 115 bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư biểu mô tế bào gan tại Khoa Phẫu thuật Gan - Mật - Tụy, Bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020. Kết quả: Các chỉ số sinh tồn ở mức độ cho phép, tỷ lệ bệnh nhân có sốt ở ngày thứ 2 và thứ 3 thấp chỉ có 4,34%. Tỷ lệ nề đỏ vết mổ ngày nhất là 10,43%, đọng dịch ngày hai là 6,09%; đến khi ra viện 100% vết mổ khô. 82,61% bệnh nhân được thay băng hằng ngày. Thời gian rút dẫn lưu chủ yếu là sau 72 giờ: 70,21%, 100% bệnh nhân đi bỏ khung trong ngày ra viện; tỷ lệ bệnh nhân ăn uống bình thường ngày thứ 4 và 5 sau mổ lần lượt là 83,48%, 94,78%. 10,43% bệnh nhân có nhiễm khuẩn vết mổ nông. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy chăm sóc người bệnh cắt gan điều trị ung thư biểu mô tế bào gan rất quan trọng nhằm phát hiện các biến chứng, giúp người bệnh giảm đau, phục hồi nhanh, góp phần cho sự thành công của phẫu thuật.
#Chăm sóc hậu phẫu #ung thư biểu mô tế bào gan #cắt gan
Khảo sát một số yếu tố liên quan đến tái phát và sống còn sau phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư biểu mô tế bào gan
Mục tiêu: Đánh giá tỉ lệ tái phát, thời gian sống không bệnh (Disease-Free Survival - DFS), tỉ lệ sống còn toàn bộ (Overall Survival-OS) và các yếu tố tiên lượng tái phát, DFS và OS của các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) được điều trị bằng phẫu thuật cắt gan. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu 4273 bệnh nhân UTBMTBG được điều trị bằng phẫu thuật cắt gan tại khoa U gan, Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2019. Các bệnh nhân này được theo dõi đến tháng 06/2021, với thời gian theo dõi ít nhất là 18 tháng, nhiều nhất là 138 tháng. Tình trạng nhiễm virus viêm gan, nồng độ AFP, mức độ cắt gan và huyết khối tĩnh mạch cửa (HKTM cửa) được phân tích đơn biến dựa trên kiểm định log-rank và phân tích đa biến dựa trên mô hình hồi qui Cox để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tái phát, DFS, OS. Kết quả: Phân tích đơn biến cho thấy nhiễm virus viêm gan, nồng độ AFP trước phẫu thuật, mức độ cắt gan và HKTM cửa có liên quan đến tái phát. Mô hình hồi qui Cox cho thấy nồng độ AFP, mức độ cắt gan và HKTM cửa là các yếu tố tiên lượng đối với DFS và OS. Kết luận: Có nhiều yếu tố khác nhau phối hợp ảnh hưởng đến tái phát, DFS và OS. Cần theo dõi sát sau phẫu thuật để cải thiện hiệu quả điều trị đối với các bệnh nhân UTBMTBG được điều trị bằng phẫu thuật cắt gan.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #phẫu thuật cắt gan #tái phát #thời gian sống không bệnh #tỉ lệ sống còn toàn bộ
CẮT XƠ RỐN GAN RỘNG RÃI TRONG PHẪU THUẬT KASAI ĐIỀU TRỊ TEO ĐƯỜNG MẬT BẨM SINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật Kasai có cắt xơ rốn gan rộng rãi trong điều trị teo đường mật bẩm sinh tại bệnh viện nhi Trung Ương giai đoạn 2016-2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả loạt ca bệnh bao gồm 172 bệnh nhân được chẩn đoán teo đường mật bẩm sinh, được điều trị bằng phẫu thuật Kasai có cắt xơ rốn gan rộng rãi tại bệnh viện Nhi trung ương từ 01/2016 đến 12/2020. Các tiêu chuẩn nghiên cứu bao gồm các đánh giá chi tiết phẫu thuật, các biến chứng sau mổ, tỷ lệ tử vong và một số yếu tố liên quan. Kết quả: Thời gian mổ trung bình là 152.1 ± 28.9 phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 11,4 ± 2,69 ngày. Đánh giá tại thời điểm ra viện kết quả tốt chiếm 77,3%, kết quả trung bình chiếm 22,1%. Các biến chứng thường gặp là nhiễm trùng đường mật, suy gan sau mổ, rối loạn điện giải. Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu có 57,6% bệnh nhân dẫn lưu mật thành công. 23 bệnh nhân tử vong với thời gian theo dõi trung bình là 13,9 ± 13,6 tháng. Tuổi, bilirubin toàn phần trước mổ là những yếu tố liên quan đến kết quả cũng như tỷ lệ sống. Phân tích mối liên quan giữa chỉ số PELD và APRi tại thời điểm trước và sau mổ 6 tháng với tỷ lệ sống cho thấy mối liên quan mật thiết với p<0,05.Kết luận: Điều trị teo đường mật bẩm sinh bằng phẫu thuật Kasai có cắt xơ rốn gan rộng rãi mang lại kết quả dẫn lưu mật khả quan sau mổ với tỷ lệ bệnh đạt kết quả tốt cao.
#Teo đường mật bẩm sinh #cắt xơ rốn gan rộng rãi #phẫu thuật Kasai
Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt gan có sử dụng siêu âm trong mổ điều trị ung thư biểu mô tế bào gan
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô tế bào gan có sử dụng siêu âm trong mổ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu quan sát 50 trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan được phẫu thuật có siêu âm trong mổ tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Có 41 bệnh nhân nam, 9 nữ, tuổi trung bình là 50,2 ± 11,6. Tỷ lệ mắc viêm gan B: 92%. AFP > 400ng/ml: 16 trường hợp (32%). Phẫu thuật cắt gan lớn: 34%, cắt gan nhỏ: 66%. Siêu âm trong mổ phát hiện u mới: 12% trường hợp, làm thay đổi kế hoạch mổ: 24% trường hợp. Thời gian phẫu thuật trung bình: 197,5 ± 69 phút, lượng máu mất trong mổ trung bình: 220,6 ± 156ml, không trường hợp nào phải truyền máu trong mổ. Không có bệnh nhân tử vong sau mổ, tỷ lệ biến chứng: 28%, chủ yếu là tràn dịch màng phổi. Thời gian nằm viện trung bình 10 ngày. Kết luận: Cắt gan có sử dụng siêu âm trong mổ là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện. Phẫu thuật cắt gan với siêu âm trong mổ giúp phát hiện chính xác giai đoạn bệnh và vị trí khối u giúp đảm bảo tính triệt căn của phẫu thuật.  
#Ung thư biểu mô tế bào gan #siêu âm trong mổ #cắt gan
KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ CẮT GAN NHỎ THEO GIẢI PHẪU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau mổ cắt gan nhỏ điều trị ung thư biểu mô tế bào gan và các yếu tố ảnh hưởng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 129 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan từ tháng 1/2015 đên 1/2020 tại trung tâm ghép tạng bệnh viện Việt Đức. Kết quả Độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 52,8 ± 12,4, tỷ lệ nam/nữ là 4/1, tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử VGB là 26,35%. Bệnh nhân vào viện vì triệu chứng đau tức bụng là thường gặp nhất, chiếm 46,5%. AFP huyết thanh trung bình 736,97 ± 1612,7 (0,06 - 7725) ng/ml. Có 33% BN có giá trị AFP > 200 ng/ml. Đường mở bụng được sử dụng phổ biến trong NC là đường chữ J chiếm tỷ lệ 77,5%. Thời gian mổ cắt gan nhỏ trung bình 225,1 ± 70,6 phút. Tỷ lệ biến chứng chung sau mổ là 47,2%, Tràn dịch màng phổi có tỉ lệ 39,5% là biến chứng thường gặp nhất trong nghiên cứu. Ổ dịch tồn dư có tỉ lệ 13,18 %, chảy máu sau mổ có tỉ lệ 1,6%, tỷ lệ suy gan sau mổ là 0,78%. Có 1 trường hợp tử vong sau mổ (trong vòng 1 tháng sau mổ). Thời gian nằm viện trung bình của toàn bộ BN trong nghiên cứu là 10,4 ± 3,9 ngày. Thời gian mổ trên 240 phút, tuổi trên 60 là các yếu tố ảnh hưởng đến các biến chứng sau mổ. Kết luận: phẫu thuật cắt gan nhỏ điều trị ung thư biểu mô tế bào gan an toàn, đa phần biến chứng ở mức độ nhẹ với tỷ lệ tử vong thấp.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #phẫu thuật cắt gan nhỏ
KẾT HỢP NÚT TĨNH MẠCH CỬA VÀ TĨNH MẠCH GAN LÀM PHÌ ĐẠI GAN TRƯỚC PHẪU THUẬT CẮT GAN LỚN: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Nút mạch đồng thời tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch gan (LVD) được áp dụng rộng rãi trong thời gian gần đây do làm tăng đáng kể tốc độ và mức độ phì đại gan trước phẫu thuật cắt gan lớn so với phương pháp nút tĩnh mạch cửa (PVE) đơn thuần, từ đó rút ngắn được thời gian chờ đợi phẫu thuật và giảm nguy cơ khối u tiến triển. Chúng tôi báo cáo một trường hợp được thực hiện LVD làm phì đại gan trước phẫu thuật cắt gan lớn do khối ung thư đường mật trong gan. Sau thủ thuật, bệnh nhân có tăng đáng kể thể tích gan còn lại theo dự kiến trong vòng 3 tuần. Phẫu thuật cắt gan phải mở rộng sau thời điểm nút mạch 4 tuần mà không có biến chứng suy gan sau phẫu thuật. Qua trường hợp lâm sàng này, chúng tôi nhận thấy LVD có hiệu quả cao trong việc làm tăng thể tích gan còn lại theo dự kiến (FLR) trước phẫu thuật cắt gan lớn.
#Nút tĩnh mạch cửa #nút tĩnh mạch gan #phẫu thuật cắt gan lớn #ung thư đường mật
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT DẠ DÀY GẦN TOÀN BỘ TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN CT1-2N0M0 TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả sớm phẫu thuật nội soi (PTNS) cắt gần toàn bộ dạ dày (GTBDD) của nhóm bệnh nhân ung thư dạ dày (UTDD) giai đoạn cT1-2N0M0 tại khoa Ngoại Bụng I bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên không đối chứng trên 52 người bệnh được phẫu thuật nội soi cắt gần toàn bộ dạ dày từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 2 năm 2022. Kết quả: Tuổi mắc bệnh trung bình là 54,1 tuổi, với chủ yếu thời gian khởi phát < 3 tháng (76,9%). Tất cả bệnh nhân trước mổ được chẩn đoán là T1-T2N0, sau phẫu thuật có 9,6% bệnh nhân ở giai đoạn T3-T4 và 28,9% bệnh nhân có di căn hạch. Thời gian phẫu thuật trung bình là 192 phút Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có thời gian hồi phục sớm sau mổ. Không có trường hợp nào xảy ra tai biến hay biến chứng trong và sau mổ như chảy máu, nhiễm trùng vết mổ, rò mỏm tá tràng, rò miệng nối, tắc ruột hay phải nhập viện trở lại trong 30 ngày. Kết luận: PTNS cắt GTBD đạt kết quả tốt thời gian phẫu thuật, số lượng máu mất trung bình, số lượng hạch vét được, cũng như chưa ghi nhận các trường hợp tai biến và biến chứng.
#phẫu thuật nội soi #ung thư dạ dày
Nút tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch gan làm phì đại gan trước cắt gan lớn: Kết quả ban đầu tại Việt Nam
Nghiên cứu mô tả hiệu quả của phương pháp nút tĩnh mạch cửa đơn thuần (portal venous embolization – PVE) và phương pháp nút kết hợp tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch gan ((liver venous deprivation – LVD) trước phẫu thuật cắt gan lớn. Từ 01/2020 đến 06/2021, 15 bệnh nhân được đưa vào nhóm nghiên cứu gồm 11 PVE và 4 LVD. Không có biến chứng liên quan đến thủ thuật ở nhóm PVE; một bệnh nhân xuất hiện chảy máu ngay sau LVD, được nút tạm thời động mạch gan phải để cầm máu, nhưng dẫn đến suy gan và tử vong sau 38 ngày. Tỷ lệ thể tích gan còn lại theo dự kiến (future liver remnant - FLR) đủ để được phẫu thuật ở nhóm PVE là 5/11, đạt 3/4 ở nhóm LVD. Tỷ lệ FLR tăng lên sau nút mạch ở nhóm PVE và LVD lần lượt là 32% và 118%, p = 0,024, tốc độ phì đại gan ở 2 nhóm tương ứng lần lượt là 5% và 38%, p = 0,01. LVD gây phì đại nhanh hơn và nhiều hơn đáng kể so với PVE, có thể là một kỹ thuật thay thế cho PVE với hy vọng giúp tăng tỷ lệ bệnh nhân được cắt gan.
#Phẫu thuật cắt gan lớn #nút tĩnh mạch cửa #nút tĩnh mạch gan #nút tĩnh mạch kép
KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ CẮT GAN LỚN ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau mổ cắt gan lớn điều trị ung thư tế bào gan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 52 Bệnh nhân (BN)  được phẫu thuật cắt gan lớn tại trung tâm ghép tạng - Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2019, có giải phẫu bệnh sau mổ là ung thư biểu mô tế bào gan Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 50,3 ± 12,9, tỷ lệ nam/nữ là 5/1, tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử viêm gan B và hoặc C là 38,5%. Bệnh nhân đi khám vì sờ thấy khối u bụng chỉ có 9,6%. AFP huyết thanh > 200ng/ml chiếm 53,8%. Đường mở bụng được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu là đường chữ J dưới sườn phải chiếm tỷ lệ 86,5%. Tỷ lệ biến chứng chung sau mổ là 36,5%, Ổ dịch tồn dư có tỉ lệ 24 % là biến chứng thường gặp nhất. Không có bệnh nhân nào chảy máu và suy gan sau mổ. Tử vong sau mổ (trong vòng 1 tháng sau mổ) 0%. Thời gian nằm viện trung bình của toàn bộ bệnh nhân trong nghiên cứu là 14 ± 8,2 ngày. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) về ảnh hưởng của bilirubin toàn phần (< 20 và ³ 20 mmol/ml), albumin (< 35 và ³ 35g/l), prothrombin% (<65 và ³ 65%), tiểu cầu (< 100 và ³  100 G/l), số lượng u (≤ 2 u và > 2 u), truyền máu trong và hoặc sau mổ đến tỉ lệ có biến chứng hoặc không có biến chứng sau mổ. Kết luận: Cắt gan lớn điều trị ung thư biểu mô tế bào gan được thực hiện an toàn, không có bệnh nhân tử vong sau mổ.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #phẫu thuật cắt gan lớn
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4